P. Nguyễn Thái Hợp, 0.P.
Chưa bao giờ nhân loại sở hữu nhiều của cải, kỹ thuật, công nghệ và tri thức như hôm nay, nhưng cũng chưa bao giờ hố phân cách giàu nghèo sâu thẳm như ở giai đoạn toàn cầu hóa này. Thật vậy, năm 2007, con số tỉ phú trên thế giới lên tới 1.125 người, với tổng số tài sản là 4.400 tỉ. Đây là lần đầu tiên con số tỷ phú vượt ngưỡng 1000 người (năm 2006 là 946 người). Ba người giàu nhất trong năm 2007 là: Warren Buffett (62 tỉ), Carlos Slim (60 tỉ) và Bill Gates (58 tỉ). Tài sản bình quân mỗi tỉ phú là 3,9 tỉ USD[1]. Trong khi đó, theo FAO, do biến đổi khí hậu, nhiều nơi bị mất mùa, giá lương thực tăng cao, vì vậy ít nhất 37 quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng lương thực. Ngay tại Hoa Kỳ, theo khảo sát của bộ Nông nghiệp, khoảng 35,5 triệu người, tương đương với 12,1% dân số, bị đói ăn.
Tại Việt Nam, mặc dù gặp nhiều tác động bất lợi do thiên tai trong nước
và do sự suy thoái của kinh tế thế giới, nhưng kinh tế của chúng ta trong năm 2007 đã có tăng trưởng đáng khích lệ 8,5%. GDP tính theo giá tương đương khoảng 71,5 tỉ USD và bình quân đầu người đạt tới 839USD/năm. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao, một bộ phận trong xã hội giàu lên rất nhanh. Dịp Xuân Mậu Tý vừa qua tỷ lệ tiêu dùng ở các thành phố lớn đã tăng khoảng 250-300%. Trong năm 2007 Việt Nam đã bỏ hơn 10 tỉ USD để mua xe hơi và có doanh nhân đã bỏ ra 1,5 triệu USD để mua một chiếc xe Roll Royce chở thẳng từ London đến Tp HCM... làm quà Tết cho chính mình.
Trong khi đó, ngay tại Việt Nam vào năm 2008 này, “có những người nghèo không biết Tết” (Nguyễn Bính) và đang chịu đói rét trầm trọng. Khoảng 114.000 trẻ em phải bỏ học vì đói rét. Có những lớp học hầu như trống vắng, vì số học sinh bỏ học lên tới 60 hay 70%. Đối diện với hiện trạng chênh lệch giàu nghèo hiện nay, nhiều người vẫn tâm đắc với nhận xét dí dỏm và thông minh về “bình quân được... nửa con gà” của một nông dân Trà Vinh nào đó:
“Vừa qua, trong đợt thị sát đời sống xã hội ở tỉnh Trà Vinh, một vị lãnh đạo có gặp gỡ người dân và ông nói lên niềm vui khi thấy con số thu nhập bình quân trên đầu người của tỉnh đạt 800 USD/năm. Nói xong, vị lãnh đạo muốn nghe ý kiến của người dân. Một nông dân nói: “Một người ăn nguyên con gà, một người chỉ đứng nhìn, tính bình quân mỗi người ăn được... nửa con gà. Nghe 800 USD tui ham lắm, nhưng chừng nào tui và gia đình mới có được!”[1]
Đức Gioan Phaolô II đã gọi “liên đới là một nhân đức Kitô giáo” trong giai đoạn toàn cầu hóa này. Đối diện với thực trạng chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam, người Công giáo Việt Nam phải thực hiện nhân đức này như thế nào? Đâu là những hình thức liên đới cấp bách và hữu hiệu mà chúng ta nên đảm nhận?
1- Quan niệm liên đới
Liên đới (solidarité, solidarity, solidariedad) xây dựng trên căn bản triết lý quan niệm con người như một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại và nhất là một nhân vị. Vận mệnh của mỗi người được nối kết và gắn chặt với vận mệnh của bao nhiêu người khác. Tương quan và liên đới, vì vậy, là yếu tố nền tảng của con người sống bên nhau và sống với nhau trong xã hội.
Ở đây, tình liên đới bao hàm ý tưởng hiệp thông, chia sẻ cảnh ngộ, cảm thương những phận đời hẩm hiu và tự cảm thấy một thứ trách nhiệm nào đó trước những nỗi bất hạnh xảy đến cho đồng loại. Vì vậy, cố gắng tiếp tay giải quyết vấn đề, bằng những công tác xã hội, tương thân tương ái hay đấu tranh nhằm thực hiện công bằng xã hội và cải tố cơ cấu bất công.
Mặc dù người ta gặp thấy nguồn gốc của ý niệm liên đới nơi nhiều tôn giáo và văn hóa, nhưng quan niệm liên đới được sử dụng trong triết lý xã hội hiện đại khai sinh vào giai đoạn cách mạng Pháp 1789 và phổ biến rộng rãi ở thời hậu cách mạng để đề cao sự nhạy cảm đối với công bằng xã hội và ý thức tình huynh đệ, nghĩa đồng bào giữa người dân trong cùng một nước hay giữa các thành viên của cùng một tổ chức, một hiệp hội hay đoàn thể.
Trước tiên, người ta sử dụng hạn từ “liên đới” này trong lãnh vực pháp lý để diễn tả sự ràng buộc pháp lý chặt chẽ giữa chủ nợ và con nợ. Trách nhiệm này có thể được thay thế bởi một người khác, nếu chính đương sự không có khả năng để chu toàn lời cam kết của mình. Khi quan niệm này được áp dụng sang lãnh vực nhân học và xã hội học thì càng làm rõ nét hơn ý nghĩa nhân bản của “sợi dây liên đới”: không còn là một thứ vị tha chủ nghĩa hay thái độ quảng đại trong tương quan đối với người khác, mà trước hết là một trách nhiệm mang dáng dấp bổn phận đối với tha nhân. Chính bản tính con người, ý thức nhân loại và nghĩa đồng bào của những người cùng một giống nòi và cùng đồng hành trên con thuyền nhân loại, đòi hỏi chúng ta phải có tâm tình, hành vi, trách nhiệm liên đới với nhau.
Trong lãnh vực đạo đức xã hội, hạn từ liên đới đã vượt qua hàng rào pháp lý để đi vào môi trường rộng lớn của thực tại nhân loại. Nó trở thành một “hạn từ biểu tượng”, một thứ “chìa khoá”, một “diễn ngữ đầy ấn tượng” để diễn tả mối dây liên kết chặt chẽ và linh thiêng của thực tại nhân loại: Xét như là con người, chúng ta kết thành một khối, một thực tại bền vững và một gia đình nhân loại. Chúng ta có trách nhiệm với nhau và cần phải đối xử với nhau theo quy luật liên đới: ý thức, cảm nhận và chấp nhận điều kiện nhân loại như một thân phận chung, trong đó mọi người liên đới và đồng hành với nhau[1].
Quan niệm liên đới này dẫn chúng ta đến vấn đề trung tâm của đạo đức học hiện đại: Đề cao mối tương quan giữa chủ thể và tha tính. Triết gia Emmanuel Levinas và Paul Ricoeur là hai người tranh đấu không mệt mỏi cho chiều kích liên đới này. E. Levinas đề nghị làm triết học theo hướng khác: Thay vì khép kín trong “tự thân” để rồi rơi vào cá nhân chủ nghĩa, ông đề nghị mở rộng cánh cửa cho tha nhân. Thay vì thứ “hữu thể thuần túy” theo lối nhìn của Heidergger, Levinas đã trình bày một mối tương quan sinh động mới, trong đó còn không giản lược tất cả vào tương quan giữa chủ thể với đối tượng, mà nhằm hướng tới một lối tiếp cận khác, một tương quan đặc biệt với tha nhân[1].
Dưới nhãn quan của Levinas, “tha tính” chính là một cách thế khác để hiện hữu, cho phép con người thực hiện chính mình một cách phong phú và tốt đẹp hơn. Nói cách khác, để đạt tới việc thực hiện “tự thân” đích thực thì cần đến việc thực hiện “tự tha”. Levinas thú nhận: “Tương quan với tha nhân bắt buộc tôi phải đặt lại vấn đề về chính mình. Nó lột trần chính bản thân tôi và không ngừng lột trần tôi, giúp tôi luôn khám phá trong chính mình những nguồn năng lực mới”[1].
“Tha tính” của Levinas vừa là một “cái tôi khác”, vừa là người khác tôi. Tha tính vượt ra ngoài chiều kích thuần tuý hữu thể, đoạn tuyệt với tính tự túc và tự lập của một lý trí xây dựng trên cái tôi tuyệt đối, cô đơn và khép kín để đặt mình trong chiều kích tương quan của viễn tượng đạo đức liên đới.
Bén rễ nơi triết lý xã hội, liên đới luôn giả thiết công lý, nhưng đi xa hơn công lý hay công bằng xã hội. Một mặt, như Victoria Camps đã ghi nhận, “lòng chung thuỷ đối với bạn bè, lòng cảm thương đối với một người bị ngược đãi, việc hỗ trợ người bị bách hại, hành động dấn thân vào những chuyện coi như thất bại hoặc không được đại chúng ái mộ, không thể tạo thành một bổn phận đích thực của công bằng, nhưng chắc chắn là bổn phận của liên đới”[1].
Mặt khác, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tri thức, sự phát triển của các nước giàu lệ thuộc nhiều ở khả năng sáng tạo và sự biến đổi kỹ thuật nội tại hơn là hành động trấn lột các nước nghèo. Chính vì thế, không thể dễ dàng đồng hoá những “người bị loại trừ” trong nền kinh tế tri thức với những “người bị bóc lột”, hiểu theo quan niệm cổ điển. Lý do giản dị là trong hệ thống kinh tế hiện nay, những người nghèo không hẳn là những người bị bóc lột, mà đúng hơn là những người bị loại trừ. Bởi vì họ chỉ là những lao động phổ thông hay bị thất nghiệp, nên đã trở thành những cánh tay thừa thãi trong một nền kinh tế ngày càng chuyên nghiệp và cần nhiều chất xám. Do đó, không dễ dàng dựa trên công bằng xã hội để đòi hỏi quyền lợi cho họ, nhưng luôn luôn vẫn có thể nêu lên những yêu sách đạo đức từ viễn tượng liên đới với những người ít may mắn, bị thiệt thòi hay bất cứ vì lý do bất hạnh nào khác.
2- Quan điểm của Giáo huấn xã hội
Đối với GHXH-CG, nguyên tắc liên đới cùng với nguyên tắc công thiện công ích, vận mệnh phổ quát của tài sản và ưu tiên chọn lựa người nghèo định hướng mối tương quan giữa người với người, cũng như giữa các xã hội với nhau. Nếu có người đã gọi người là “lang sói” hay gán cho tha nhân nhãn hiệu “địa ngục”, thì đối với người Công giáo, tha nhân vừa là người anh em, vừa là thành phần của bản thân tôi.
Thể theo nguyên tắc nhập thể của Đức Kitô, Công đồng Vatican II long trọng xác quyết mối liên đới của Giáo hội với con người và thế giới hôm nay: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và âu lo của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và của những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, buồn khổ và âu lo của các môn đệ Đức Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà lại không có âm vang nơi cõi lòng người môn đệ Đức Kitô”[1].
Công đồng đặt nguyên tắc liên đới trên căn bản thần học về tạo dựng: “Thiên Chúa đã muốn rằng tất cả mọi người làm thành một gia đình và đối xử với nhau bằng tình huynh đệ. Thật thế, mọi người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng đã “tạo thành họ từ một người duy nhất và cho họ ở trên khắp mặt đất” (Cv 17,26) và họ cũng được gọi tới cùng một cứu cánh duy nhất là chính Thiên Chúa”[1].
Nhân danh tình huynh đệ đại đồng này, Công đồng kêu gọi mọi người quảng đại chiến thắng cá nhân chủ nghĩa và vụ lợi chủ nghĩa để mưu cầu công thiện công ích, đặc biệt cần nghĩ đến nhu cầu của những người nghèo: “Mỗi người phải nhìn nhận và tôn trọng liên đới xã hội như một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay. Bởi vì thế giới càng hợp nhất thì hiển nhiên những bổn phận của con người càng vượt lên trên những nhóm riêng rẽ và dần dần sẽ lan rộng tới toàn thế giới”[1].
Đức Giáo chủ Phaolô VI cũng ước mong một trật tự mới và một thế giới phát triển, an bình, hạnh phúc hơn. Nhưng để cho ước mơ đó thành hiện thực thì liên đới phải là một bổn phận và hơn nữa một bổn phận khẩn thiết đối với mọi người. Ngài viết: “Sự sống của bao trẻ em vô tội và hy vọng của biết bao gia đình nghèo khổ mong muốn có được những điều kiện sống xứng đáng với con người, đang bị đe doạ. Hoà bình của thế giới và tương lai của nền văn minh đang lâm nguy. Tất cả mọi người và mọi dân tộc phải đảm nhận trách nhiệm của mình”[1].
Đức Giáo Chủ nhìn rõ tính chất “lưỡng diện” nơi tăng trưởng kinh tế: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có nhiều của cải hơn không phải là mục đích sau cùng. Tất cả các tăng trưởng đều có hai mặt: Nó cần thiết để con người được nên người hơn, nhưng một khi nó trở nên giá trị tối thượng thì nó sẽ giam hãm con người, không cho phép họ nhìn xa hơn. Lúc đó, lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, mà chỉ vì lợi lộc. Lợi ích dễ làm cho con người chống đối và chia rẽ nhau. Vì thế, nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những cản trở sự phát triển của con người, mà còn chống lại sự cao cả đích thực”[1].
GHXH-CG nhìn nhận vai trò quan trọng của tăng trưởng kinh tế và tiến triển kỹ thuật, nhưng tự chúng không đủ để làm cho cuộc sống dễ sống và nhân đạo hơn. “Bởi vì phát triển đích thực phải toàn diện, nghĩa là thăng tiến con người toàn diện và tất cả mọi người. Một chuyên viên lỗi lạc đã nói rất đúng về điều đó: “Chúng tôi không chấp nhận tách rời kinh tế khỏi vấn đề của con người, phát triển khỏi những nền văn minh liên hệ. Đối với chúng tôi, điều quan trọng là con người, mỗi người, mỗi nhóm người, cho đến toàn thể nhân loại”[1].
Thông điệp “Phát triển các dân tộc” muốn giới thiệu với nhân loại một mô hình phát triển tương xứng với con người hơn. “Đây là một tiến trình đi từ những điều kiện ít nhân bản hơn đến những điều kiện nhân bản hơn, cho mỗi người và cho mọi người (…).Nhân bản hơn có nghĩa là tiến từ cảnh lầm than đến tình trạng sở hữu những gì cần thiết, loại trừ các tệ đoan xã hội, mở mang kiến thức, hấp thụ văn hóa. Nhân bản hơn cũng có nghĩa là tôn trọng nhân phẩm của tha nhân, hướng tới tinh thần khó nghèo, mưu cầu công ích, ước muốn hòa bình. Nhân bản hơn còn có nghĩa là nhìn nhận những giá trị tối cao và nhìn nhận Thiên Chúa là căn nguyên và cùng đích của mọi giá trị”[1].
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ban hành thông điệp “Phát triển các dân tộc”(1967), đức Gioan Phaolô II đã dành cả một thông điệp cho vấn đề sôi bỏng này và định nghĩa liên đới như sau: “Liên đới không phải là một thứ cảm thương mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những khổ đau của bao nhiêu người xa gần. Ngược lại, đó là quyết tâm chắc chắn và bền vững dấn thân cho công ích, nghĩa là cho lợi ích của mọi người và của từng người, bởi vì tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về mọi người. Một quyết tâm như vậy dựa trên xác tín vững chắc rằng việc phát triển toàn diện đang bị cản trở bởi lòng ham muốn lợi nhuận và khát khao quyền lực. Chỉ có thể chiến thắng những thái độ và những “cơ cấu tội lỗi” ấy –dĩ nhiên là với ơn Chúa– nhờ một thái độ hoàn toàn đối nghịch: dấn thân phục vụ lợi ích của tha nhân, sẵn sàng chết, theo tinh thần Tin Mừng, cho người khác thay vì bóc lột họ và “phục vụ” thay vì đàn áp họ để mưu cầu tư lợi”[1].
Theo đức Gioan Phaolô II, liên đới không những cần thiết cho công cuộc phát triển con người toàn diện, mà hơn nữa phải là một “thái độ luân lý” và “một nhân đức Kitô giáo”[1]. Sau khi đề cập đến điểm tương đồng giữa bác ái và liên đới, ngài viết những dòng sâu sắc và thâm thuý về liên đới. Vì tính chất độc đáo của bản văn, chúng tôi xin được phép trích dẫn hai đoạn chính sau đây:
“Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tiến tới việc vượt qua chính mình, để mặc thêm những chiều kích đặc thù của Kitô giáo về thái độ hoàn toàn vô vị lợi, thứ tha và hoà giải. Như vậy, tha nhân không chỉ là một hữu thể nhân loại, có những quyền lợi và sự bình đẳng nền tảng với mọi người, nhưng trở thành hình ảnh sống động của Thiên Chúa(...). Do đó, tha nhân phải được yêu mến, ngay cả khi họ là thù địch, bằng chính tình yêu mà Chúa đã yêu thương họ, và phải sẵn sàng hy sinh cho họ, ngay cả với hành động cực độ: “Thí mạng sống vì anh em mình”..
“Liên đới phải góp phần vào việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, ở phạm vi cá nhân cũng như trên bình diện quốc gia và quốc tế. Các “cơ chế đồi truỵ” và các “cơ cấu tội lỗi” chỉ có thể bị đánh bại bằng việc thực hành liên đới nhân bản và Kitô giáo. Chỉ bằng cách đó mà nhiều năng lực mới có thể được tận dụng một cách trọn vẹn cho công cuộc phát triển và hoà bình”[1].
Đề tài liên đới này được áp dụng một cách đặc biệt trong lãnh vực kinh tế – xã hội. Đây là lãnh vực khó khăn và nan giải nhất, nhưng cũng chính ở nơi đây tình liên đới mới mang tính chất hiện thực và hữu hiệu. Trong phạm vi quốc gia, “việc thi hành tình liên đới trong mỗi xã hội chỉ hiện thực khi các thành viên nhìn nhận nhau như nhân vị. Những người có nhiều của cải, cần ý thức trách nhiệm đối với những người yếu kém hơn và sẵn sàng chia sẻ với họ tài sản của mình. Trong cùng một chiều hướng liên đới, những người kém may mắn, không được chọn lựa thái độ thuần tuý thụ động hoặc phá huỷ mối tương quan xã hội. Ngay cả khi tranh đấu cho những quyền lợi chính đáng của mình cũng cần thực hiện trách nhiệm của mình đối với công ích. Về phần mình, những nhóm trung gian không được nhấn mạnh một cách ích kỷ quyền lợi riêng của mình, mà cần tôn trọng quyền lợi của những người khác”[1].
Theo truyền thống cố cựu của Kitô giáo, nguyên tắc liên đới nối kết một cách sâu thẳm với nguyên tắc công thiện công ích và định mệnh phổ quát của tài sản. Chính vì vậy, sau khi đã tỉ mỉ phân tích ý nghĩa của liên đới, thông điệp “Quan tâm tới vấn đề xã hội” viết thêm: “Thiết tưởng cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc đặc biệt của giáo huấn xã hội Kitô giáo: Ban đầu, tài sản của thế giới được trao phó cho mọi người. Dù quyền tư hữu hợp pháp và cần thiết đến đâu đi chăng nữa, cũng không huỷ bỏ giá trị của nguyên tắc nói trên. Thật vậy, trong quyền tư hữu đã khắc ghi một “cầm cố xã hội”, nghĩa là được nhìn nhận, như phẩm chất nội tại, một trách nhiệm xã hội được xây dựng và biện minh một cách thực sự nơi nguyên tắc định mệnh phổ quát của tài sản”[1].
Cũng chính trong viễn tượng này mà liên đới trở thành đề tài trung tâm trên bình diện quốc tế. Ngay trong thông điệp “Mẹ và Thầy”(1961), đức Gioan XXIII đã đặc biệt nhấn mạnh đến tương quan liên đới giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Ngài viết: “Chiều kích liên đới, một chiều kích hôm nay đang nối kết tất cả mọi người trong một gia đình duy nhất, đòi hỏi những nước được hưởng sự sung túc về tài sản kinh tế có nghĩa vụ không được hờ hững đối với những nước, mà người dân đang phải vật lộn trong tình trạng khốn cùng và nghèo đói, chưa được hưởng những quyền lợi căn bản của nhân vị. Trách nhiệm này ngày càng lớn mạnh do sự ý thức ngày một rõ hơn về mối tương quan đồng lệ thuộc giữa các dân tộc, bởi vì không thể nào có được một nền hoà bình dài lâu và phong phú, nếu sự chênh lệch về kinh tế và xã hội giữa các dân tộc quá sâu thẳm”[1].
Thông điệp “Phát triển các dân tộc” đặc biệt cổ võ sự phát triển toàn diện của mỗi người và của mọi người trên thế giới[1]. Và dĩ nhiên sự phát triển toàn diện này phải gắn liền với sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy, đức Phaolô VI đề cập đến mối liên đới giữa các dân tộc và trách nhiệm của các nước giàu. Trách nhiệm này bao gồm ba khía cạnh: “Trước hết, vì bổn phận liên đới, các nước giàu phải trợ giúp các nước đang phát triển; thứ đến, vì bổn phận công bằng xã hội, cần cải thiện mối quan hệ thương mại giữa các nước mạnh và các nước yếu; sau hết, vì bổn phận bác ái phổ quát, cần cổ võ một thế giới nhân đạo hơn cho mọi người, trong đó mọi người vừa cho vừa nhận, và tăng triển của người này không còn cản trở phát triển của người kia”[2].
Đức Gioan Phaolô II công nhận liên đới quốc tế là “một con đường dài và khó khăn. Ngoài ra, thường xuyên còn bị đe doạ bởi tính mong manh nội tại của các dự án và việc thực hiện của con người, cũng như bởi sự thay đổi khôn lường của hoàn cảnh ngoại tại. Tuy nhiên, cần nhất quyết dấn thân thực hiện và ở nơi nào đã thực hiện được một vài bước, hoặc đã được một phần, phải tiếp tục đi đến cùng”[1].
Ngỏ lời với các tham dự viên trong Phiên họp khoáng đại lần II của Hàn lâm viện Giáo hoàng về Xã hội học, đức Gioan Phaolô II tuyên bố: “Cuộc cạnh tranh chính đáng đang năng động hóa đời sống kinh tế không được chống lại quyền lợi căn bản của con người là có việc làm để nuôi sống gia đình. Thật vậy, làm sao gọi một xã hội là giàu có, nếu trong đó nhiều người không có điều kiện cần thiết để sống? Bao lâu một con người bị tổn thương và biến dạng vì nghèo đói, thì chính xã hội, trong một nghĩa nào đó, cũng bị tổn thương”.
Trong viễn tượng liên đới này, mặc dù giáo huấn xã hội của Giáo Hội công nhận toàn cầu hoá kinh tế và tài chánh là một thực tại lịch sử, nhưng thách đố của thời đại chúng ta là làm sao xây dựng một toàn cầu hóa bớt loại trừ và một xã hội liên đới? Làm sao để mô hình toàn cầu hoá hiện tại sẽ đem lại phúc lợi và vận may cho mọi người? Có chăng một toàn cầu hóa không loại trừ hay bớt loại trừ hơn?
3- Tại quê hương Việt Nam
Do tính thời vụ của nghề trồng lúa nước, lại phải thường xuyên chống chọi với thiên tai và lụt lội nên tinh thần làng xã của người Việt Nam ngày xưa rất sâu đậm, đến độ “phép Vua còn thua lệ làng”. Vượt khỏi tình liên đới làng xã, người Việt ý thức rõ rệt tinh thần dân tộc và nghĩa đồng bào. Không người dân Việt nào mà lại không nằm lòng những câu ca dao nói về tính cộng đồng, liên đới và đoàn kết giữa người dân cùng một nước:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Lá lành đùm lá rách.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Hoặc ngắn gọn và trực tiếp hơn:
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Chính nhờ tinh thần đoàn kết và liên đới này mà người Việt đã thành công trong việc dựng nước và bảo vệ đất nước chống lại các đạo quân xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Trước vận hội mới của đất nước, chắc chắn chúng ta phải vận dụng một cách sáng tạo tình liên đới, tinh thần đoàn kết và ý thức quật cường của dân tộc để sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu, chậm tiến..., nhưng vẫn không đánh mất bản sắc của Dân tộc.
a)- Giáo dục
Trong thời gian gần đây, người ta nói nhiều đến sự xuống cấp và lạc hậu của nền giáo dục hiện tại của chúng ta. Có người ví nó như căn nhà tập thể cổ lỗ xây dựng khoảng bốn mươi năm trước, không theo qui củ thông thường, càng sửa chữa, cơi nới càng dị dạng. Thành ra, càng phát triển càng đòi hỏi đầu tư phi lý, mà chất lượng càng kém. Kết cục, bỏ thì thương vương thì tội[1].
Theo ý kiến chung, các đại học Việt nam đã không làm tròn các đòi hỏi thiết yếu này. Bản “Báo cáo và Phát triển trên Thế giới” năm 2006 của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt nam t?t l?i phía sau rất xa các nước khác trong khu vực và chỉ có 2% dân số ???c ?i h?c ?? 13 năm hoặc hơn nữa. Cũng theo báo cáo này thì Việt nam đứng chót trong khu vực vì chỉ có 10% thanh thiếu niên trong hàng tuổi từ 20 đến 24 ghi danh vào các trường đại học hoặc cao đẳng. Trái lại, Trung quốc có 15% sinh viên trong hàng tuổi này đã ghi danh, Thái lan có 41% và Nam Hàn có con số thật ấn tượng là 89%”.
Đó là mới chỉ đề cập đến số lượng. Nếu so sánh về chất lượng thì càng thấy rõ tình trạng tụt hậu của Việt Nam so với các quốc gia lân cận: “Năm 2006, các giáo sư và sinh viên đại học Quốc gia Seoul (Hán thành) công bố 4,556 ấn phẩm khoa học. Trường đại học Bắc kinh có gần 3,000. và so sánh ta thấy có đại học Quốc gia Hà nội và trường Kỷ thuật Quốc gia Hà nội chỉ thực hiệ được 34 ấn phẩm. Số đơn xin bằng sáng chế là thước đo hữu dụng và biết khả năng phát minh của một quốc gia. Báo cáo n?m 2006 của Ngân hàng Thế giới cho biết Trung quốc có 40,000 đơn xin bằng sáng chế, trong khi ở Việt nam chỉ vỏn vẹn 2 đơn”[1].
“Tư bản nhân văn” ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Nhưng chương trình giáo dục hiện tại ở Việt Nam chỉ đáp ứng được yêu cầu trên ở mức độ rất thấp. Hiện nay, Nhà Nước đang khuyến khích người nước ngoài, kể cả Hoa Kỳ, đầu tư vào giáo dục và mỗi năm các gia đình khá giả phải tốn bao nhiêu tiền để gởi con đi học ở nước ngoài.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chính thức công nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”. Đặc biệt, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức gặp gỡ đức Giáo Chủ Benedicto XVI. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao Nhà Nước đang tha thiết mời các đại học nước ngoài, kể cả đại học Hoa Kỳ, đầu tư vào Việt Nam, thế mà vẫn chưa cho phép các tôn giáo trong nước, những người cùng chung một giòng máu và một tình tự dân tộc, được trực tiếp tham gia vào lãnh vực giáo dục? Giữa lúc nền giáo dục Việt Nam khủng hoảng trầm trọng vì thiếu “tâm & tầm”, nhưng tại sao vẫn không cho các tu sĩ có cơ hội đóng góp tim - óc của mình cho tương lai dân tộc? Phải chăng đã đến lúc “cần nhận thức lại” như Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân đã thổ lộ?
b)- Y tế
Năm 2007 cũng là năm ngành Y tế Việt Nam gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Trước hết là một vài thí dụ về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và giải quyết dịch bệnh: Từ vụ các công ty sản xuất nước tương có chất gây ung thư (3 – MCPD) vượt quá mức độ cho phép, cho đến dịch tiêu chảy do thực phẩm bị nhiễm khuẩn, rồi dịch lở mồm long móng trên gia súc, dịch heo tai xanh, dịch cúm gia cầm...
Thứ đến, khủng hoảng về lương tâm nghề nghiệp và cơ sở hạ tầng. Tại Tp HCM, chẳng hạn, công tác điều trị bình thường đòi hỏi mỗi ngày cần khoảng 15.000 giường cho bệnh nhân. Thế nhưng, tất cả bệnh viện công và tư ở thành phố mới có khoảng 8.000 giường, nghĩa là chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. Vì thế tình trạng 2 bệnh nhân một giường sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn xảy ra tình trạng thiếu hụt ở trên, thì những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ sao? Trong quá khứ giới Công giáo đã đóng góp nhiều cho lãnh vực y tế. Bao giờ mới được tái nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau và nỗi khổ của đồng bào?
c)- Những người kém may mắn
Trong một thập niên qua, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh và ổn định với chỉ số khoảng 8% mỗi năm, liên tiếp trong một thời gian dài và đứng thứ nhì trong khu vực. Cuộc sống của người dân được nâng cao, nhất là người dân ở thành thị và những thành phần ưu đãi. Nhưng chúng ta biết rằng, tại các nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh thường kéo theo bất quân bình xã hội và hố phân cách giàu nghèo. Ngay từ thập niên 50’ của thế kỷ XX, Simons Kuznet[1] đã cho thấy hệ số Gini[1] của một nước ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển thường thấp và cứ tăng dần theo đà tăng trưởng kinh tế, nhưng khi đạt tới đỉnh cao và được bổ túc bởi phát triển xã hội, cũng như những luật lệ hợp lý về thuế khóa và an sinh xã hội, thì hệ số này lại bắt đầu giảm dần. Người ta thường diễn tả hiện tượng này bằng chữ U ngược.
Với hiện tượng toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, khoảng cách thu nhập giữa các thành phần xã hội và hố phân cách giàu nghèo ngày càng sâu rộng hơn[1]. Các quan chức, các doanh nhân, những người có vốn và có chuyên môn cao là những người có thu nhập vừa cao, vừa tăng nhanh. Bất quân bình về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các thành phần trong xã hội, ngày càng sâu đậm và rõ nét hơn. Nông dân, thành phần lao động phổ thông, những người già nua và những người có hoàn cảnh đặc biệt (khuyết tật, khiếm thị, khiếm thính, trẻ em đường phố, mồ côi, bệnh nhân HIV/AIDS) ngày càng bị thua thiệt hơn.
Không ai có thể phủ nhận khuynh hướng và tiến trình chung này. Và cũng chẳng có một chính phủ nào có thể tự mình giải quyết hoàn toàn vấn đề trên. Tuy nhiên, tại nhiều nước độ cao của chữ U ngược nói trên đã được giảm nhẹ, cũng như phần thua thiệt của những người có hoàn cảnh đặc biệt ... được giảm bớt nhờ sự cộng tác của xã hội dân sự. Với cụm từ “xã hội dân sự hay xã hội công dân” chúng tôi muốn nói đến các tổ chức thiện nguyện, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ, các tôn giáo, các hiệp hội, đoàn thể, nghiệp đoàn, báo chí, truyền thông xã hội, trường học, khu phố, thôn xóm, v.v[1]. Thiết tưởng, đã đến lúc Nhà nước Việt Nam nên tạo cơ hội để “bàn tay liên đới” của xã hội dân sự cọâng tác hài hòa với “bàn tay pháp lý” của Nhà nước và “bàn tay vô hình” của thị trường. Có như vậy, phát triển kinh tế sẽ đi song đôi với phát triển xã hội. Giới Công giáo tương đối có nhiều kinh nghiệm trong công tác bác ái xã hội. Một số nơi đang tiếp tục làm công tác từ thiện “chui”. Ước mong tình trạng này sớm được công khai hóa và hợp thức hóa.
d)- Người công nhân
Theo tài liệu của Hội nghị về người lao động di trú khu vực ASEAN, thì trong năm 2007, người lao động di trú Việt Nam đã chuyển về nước số tiền lên tới 2 tỉ USD. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đã phải trả giá rất đắt. Tại Malaysia, từ năm 2004 đến năm 2007 đã có 315 công nhân Việt Nam đột tử và riêng năm con số công nhân đột tử vượt trên 100 người[1]. Người ta vẫn chưa quên thảm trạng của nhiều cô gái Việt Nam vì nghèo đói phải chấp nhận lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc được báo chí và dư luận trong nước thảo luận sôi nổi mấy năm trước đây!
Lao động phổ thông trong nước cũng cùng chung số phận nghiệt ngã. Theo khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) tại “60 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các địa bàn Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, hải Dương với khoảng 80.000 lao động, đã cho thấy những con số rất đáng lưu ý: Thu nh?p bình quân hàng tháng c?a ng??i lao ??ng ? các doanh nghi?p FDI ch? trên d??i 1 tri?u ??ng, trong ?ó dưới 1 triệu đồng chiếm gần một nửa tổng số lao động (dưới 800 nghìn đồng chiếm 14,7% ? ngành d?t may, da giày còn chi?m 17,7%, ? ngành xây d?ng giao thông vận tải còn chi?m t?i 27,4%), th?m chí còn có m?t b? ph?n không nh? có thu nh?p bình quân 1 tháng d??i 600 nghìn ??ng”[1].
Nhiều người ngạc nhiên không hiểu tại sao giai cấp công nhân lại bị đối xử như vậy? Ngoài ra, trong viễn tượng kinh tế tri thức, muốn tiến tới một nước có thu nhập trung bình, Việt Nam không thể tiếp tục dựa trên lợi thế cạnh tranh do nhân công giá rẻ. Hơn nữa, tiêu chuẩn “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và liên đới xã hội” cũng đòi hỏi chúng ta phải đãi ngộ công bằng và xứng đáng hơn đối với thành phần lao động phổ thông. Các tôn giáo và các tổ chức tư nhân có thể làm gì để cải thiện tình trạng này? Trong mấy năm qua, tại một số Giáo phận đã hình thành Ban Mục vụ Di dân. Ước mong sao Ủy ban Bác ái – Xã hội sẽ tích cực yểm trợ và nhân rộng mục vụ này.
4- Hướng về tương lai
Trong “Thư Mục vụ 1980”, Hội Đồng Giám mục Việt Nam long trọng cam kết: sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc. Người Công giáo quyết tâm cùng chia sẽ một cộng đồng sinh mạng với Dân tộc mình, vì quê hương này là nói chúng ta được Thiên Chúa mời gọi và sống niềm tin kitô giáo, là lòng Mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta và phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa.
Tuy nhiên, lịch sử đã sang trang. Trước vận hội mới và thách đố mới của Dân tộc, đâu là cách thế mới của sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc? Chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để thực sự đồng hành với Dân tộc hôm nay?
Tiếp kiến các Giám mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina 2002, đức Gioan Phaolô II đã đề nghị một định hướng mục vụ tích cực: “Đối thoại chân thành và hợp tác lành mạnh”. Đó cũng là một cách thức thể hiện sứ vụ “men trong bột” và dấn thân phục vụ của Kitô giáo. Phải chăng trong mấy thập niên vừa qua, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cố gắng thể hiện định hướng đó bằng những hình thức và cách thế riêng? Nhưng phải thể hiện nó như thế nào?
Chiến tranh đã chấm dứt từ 33 năm. Đất nước cũng đã đổi mới và chính thức hội nhập vào cộng đồng thế giới. Phải chăng, như nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đề nghị, đã đến lúc cần xóa bỏ chia rẽ và hiềm khích quá khứ để cùng nhau đưa dân tộc đi lên: “Tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung, và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng tổ quốc của mọi người Việt Nam chúng ta trong giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”[1].
Hy vọng vì tiền đồ dân tộc và lợi ích của mọi người, đặc biệt của những người bị thua thiệt, con đường liên đới, đối thoại và hợp tác chân thành giữa các thành phần của Dân tộc Việt Nam sẽ rộng mở.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Marciano Vidal, « La solidariedad : Nueva frontera de la teologia moral », in Studia Moralia, XXIII/1, (1985), 117.
[2] Phaoloâ VI, Phaùt trieån caùc daân toäc, soá 44.
Tác giả: Nguyễn Thái Hợp, op
8.4.08
LIÊN ĐỚI KITÔ GIÁO GIÁO GIỮA LÒNG DÂN TỘC
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 komentarze:
Đăng nhận xét