Điều cuối cùng để kết lại những suy nghĩ về người và việc này là ngay cả những ai nhận hay không muốn nhận, đồng ý hay không muốn đồng ý thì sự thật vẫn là Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ đã dâng hiến cho Giáo Hội Việt Nam 40 năm tài sức của họ để cung ứng kịp thời cho cộng đồng Dân Chúa Việt Nam đuợc hoà chung dòng tâm linh với Hội Thánh như Đức Thánh Cha Phao lô VI mong đợi “…Ước chi sách Các Giờ Kinh Phụng vụ này mà giờ đây chúng tôi lấy Tông quyền chấp thuận, phê chuẩn và ban hành giúp cho Hội Thánh thời nay trổi vang lời ca tụng Thiên Chúa một cách tuyệt vời hơn nữa…”(Tông Hiến Laudis Canticum).
Vào chiều ngày 15/12/2011 mới đây, Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ đã có một buổi họp mặt linh đình và long trọng để mừng sự có mặt của Nhóm giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam vừa tròn 40 năm. Viết về Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ trong dịp rất đáng ghi nhớ của chặng đường mà Nhóm vừa buớc ngang qua đuợc cái mức 40 năm trên lộ trình chọn lựa có đủ nước mắt và hân hoan này, tôi thấy mình phải cần ôn lại một số suy nghĩ về người, về việc đã qua, về những gì còn đang trước mắt cũng như hướng lòng vào cõi tâm linh mà nghiệm duyệt về một hồng ân và không có gì là quá lời cả nếu cần nghĩ tới thêm một chút nữa là về một ánh hào quang Thiên Chúa đã chiếu soi đến các thành viên của Nhóm vì vừa hoàn thành một công nghiệp nhân danh Người.
Các giờ kinh Phụng vụ là lời cầu nguyện của Hội thánh dâng lên Thiên Chúa. Truyền thống cầu nguyện chung này của Hội Thánh qua dòng lịch sử càng ngày càng trở nên một “thần vụ” quan trọng đã đuợc Đức Thánh Cha Phao lô VI nói rõ thêm qua Tông Hiến Laudis Canticum được công bố vào ngày lễ Các Thánh 01 11 năm 1970 với lời mở đầu là “…Bài Ca Chúc Tụng Thiên Chúa hằng vang dội muôn đời trên Thiên quốc, đã được Chúa Giê su Ki tô, Vị Thượng Tế của chúng ta đưa vào trần thế. Bài ca này Hội thánh không ngừng tiếp tục hát lên qua những hình thức vô cùng phong phú với một tấm lòng bền vững, trung kiên”. Rồi từ Tông huấn này là một sứ điệp được gửi đi và một sứ vụ được giao phó là “…Các Hội Đồng Giám mục trong mỗi quốc gia có nhiệm vụ phải cho xuất bản sách này bằng tiếng nước mình…”
Thế nhưng phải nói ngay rằng cho đến nay, đã 41 năm qua đi, Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn chưa chu toàn nhiệm vụ này, nghĩa là vẫn chưa làm xong việc dịch thuật Bài Ca Chúc Tụng Thiên Chúa, nói gì đến việc “cho xuất bản sách này bằng tiếng nước mình”. Cho nên, một câu hỏi cũng phải được đặt ra ngay tại đây là giả như không có nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ tự phát tự nguyện này thì vốn liếng sách vở tâm linh và phụng vụ của Hội thánh đến với Dân Chúa Việt Nam được mấy mươi?
Ngày lễ Các Thánh năm nay, 01/11/2011, nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ vừa mới bước qua tuổi 40. Nếu đối với một đời người, con số 40 năm đã không phải là đoạn đường ngắn gọn dễ đi và dễ sống bao nhiêu thì như những gì đã được linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh trong tư thế là người có mặt ngay từ đầu ghi nhận lại cuộc hành trình của Nhóm, thì con số 40 năm của Nhóm này lại càng là một lộ trình khúc khuỷu và đầy gian nan… để rồi từ trong những năm tháng đã kiên trì nương theo bóng khổ giá của Người mà đi với những bước thấp bước cao thì anh em họ đương nhiên có quyền ngước nhìn lên Trời Cao hát lời tạ ơn vì lời đoan hứa đã thành hiện thực Ai gieo trong nước mắt, sẽ gặt trong hân hoan.
Trong cuộc đời này, thường người ta chỉ cần ngồi cộng dần từng năm đời mình đến số 40 trong hoàn cảnh chung nào đấy là đã đủ để cho một người có quyền rềnh rang kỷ niệm và ăn mừng như 40 năm linh mục, 40 năm giám mục, 40 năm hôn phối… chẳng hạn. Riêng con số 40 của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ thì khác, rất khác, vì nó phải gồm rất nhiều cái khoảng 40 năm trong từng cuộc đời của anh em họ với lòng ngay, ý lành và những nỗ lực bản thân đem đến gom chung lại mới có.
Lúc đầu, Nhóm được thành lập do thiện chí và nhiệt tình của một số người, tiêu biểu là linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, đã hăng hái đi gặp gỡ anh em này thân hữu kia để nối kết nhân sự. Rồi đúng một năm sau ngày Tông Hiến Laudis Canticum được công bố, một số thành viên đầu tiên gồm các linh mục Trần Phúc Nhân, Xuân Ly Băng, Thiện Cẩm, Nguyễn Ngọc Tỉnh, nữ tu Lê Thị Hiên đã gặp nhau tại Dòng các nữ tu Biển Đức ở Thủ Đức để ngồi lại bắt đầu buổi làm việc đầu tiên vào dịp lễ Các Thánh 01/11 năm 1971. Vì thế, Nhóm đã lấy ngày này làm ngày thành lập chính thức, lấy tên của bộ sách Các Giờ Kinh Phụng vụ được dịch đầu tiên làm danh xưng.
Tuy tất cả khởi đi từ hai bàn tay trắng, song với quyết tâm muốn thực hiện công việc đem văn chương Việt Nam vào Phụng vụ để diễn đạt niềm tin theo văn hoá dân tộc trong lãnh vực ngôn ngữ đúng yêu cầu chung của Hội Thánh đòi hỏi, họ đã nỗ lực không ngừng nghỉ, tận dụng từng dịp nào không bị các việc bổn phận với Nhà Dòng hay mục vụ của giáo xứ mình ràng buộc là lại cùng nhau làm công việc dịch thuật này trong sự eo hẹp về tài chính, trong cả sự nghị kỵ của một số các chủ chăn và sự đố kỵ của nhiều anh em trong hàng ngũ linh mục đúng theo sự thường là có người thương thì cũng có kẻ ghét ghen nhiều lẽ.
Hãy lùi lại 40 năm trước đây để thấy họ là những ai… Là cha Đỗ Xuân Quế mới chịu chức linh mục được 10 năm, đang vừa làm chủ bút báo Nhà Chúa vừa dạy học; là cha Nguyễn Ngọc Tỉnh vừa dạy học vừa học xong Văn Khoa; là cha Thiện Cẩm mới ở Pháp về cũng đang dạy ở Viện Đại học Đà Lạt; là những người khác nữa như cha Trần Phúc Nhân cũng vừa dạy học vừa miệt mài trên những trang Lời Chúa; là các cha Xuân Ly Băng, Nguyễn Hữu Phú… cũng vướng bận nhiều bổn phận nhưng vì cùng đang trong độ tuổi thanh niên đầy tâm tình và nhiệt huyết, muốn tận dụng năm tháng hồng ân đã đuợc vươn lên thành hình hài bằng luồng thần khí thổi vào nhúm cát bụi từ thuở khai thiên lập địa …như lời hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy. Ôi cát bụi tuyệt vời” và rồi chính từ cát bụi tuyệt vời này mà Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ đã vươn hình hài lớn dậy như hôm nay.
Theo trang điện tử Wikipedia ghi nhận thì “Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ là một nhóm gồm các dịch giả Kinh Thánh trực thuộc Uỷ Ban Kinh Thánh của Hội Đồng Giám mục Việt Nam. Nhóm này được thành lập vào năm 1971 theo tinh thần Hiến Chế Dei Verbum của Công Đồng Va ti ca nô II ban hành năm 1965. Nhóm bao gồm nhiều linh mục dòng, triều, tu sĩ và giáo dân với những khả năng chuyên môn khác nhau về Kinh Thánh, thần học, phụng vụ, mục vụ, thánh nhạc, văn chương… Hai công trình phiên dịch đáng kể của Nhóm đó là bộ Các Giờ Kinh Phụng vụ và cuốn Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước được xem là bản Kinh Thánh tiếng Việt được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Công Giáo Việt Nam.”
Trong tinh thần làm việc của một nhóm dịch thuật như thế thì ngoài khả năng chuyên môn về Kinh Thánh và sách Phụng vụ đòi hỏi, còn phải thông thạo không những các sinh ngữ như Pháp, Anh, Đức… mà còn phải nắm vững cả một số cổ ngữ như La tinh, Hy lạp, Híp ri, Aramê ô… nhưng trên hết mọi sự phải là có sự khiêm tốn, biết bỏ mình, tôn trọng người khác để lắng nghe ý kiến chung và quyết định chung. Đây là một điều rất khó cho con người nói chung, huống hồ những thành viên của Nhóm lại toàn là linh mục, tu sĩ có trình độ cao về học thức, về chuyên môn ; thậm chí còn đã từng hay đang là Bề Trên Dòng, là Giám Tỉnh, là cha giáo Đại chủng viện… chẳng hạn mà thắng vuợt đuợc cái não trạng “cha cố” quan liêu trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam xưa nay vẫn còn nặng nề khủng khiếp. Tuy nhiên, những điều này cho dù có khó cũng chưa phải là nỗi chông gai bằng những yếu tố ngoại tại khác như tình trạng làm việc “bất hợp pháp” đối với nhà cầm quyền cộng sản ; sự ganh ghét, đố kỵ trong nội tình sinh hoạt của cơ chế Giáo Hội từ cấp cao mà ngày nay đã hiển hiện…
Sau tháng Tư năm 1975, giữa hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của buổi giao thời mà các tôn giáo chưa biết sẽ sống chết lẽ nào và cách nào thì Nhóm vẫn tiếp tục được Dòng Đa minh để cho làm việc tại Tu viện Mai khôi như trước. Càng về sau, khi hoàn cảnh xã hội mới càng phức tạp thêm, nhất là sau khi Trung tâm Đắc lộ của Dòng Tên bị kiểm tra hành chính và linh mục Nguyễn Công Đoan bị bắt, thì họ lại còn phải xé lẻ ra để dễ bề nhờ vả hết Tu Viện này đến Nhà Dòng nọ mới có chỗ ngồi lại cho công việc được liên tục.
Đúng là một chiếc cầu sứ vụ bắc cheo leo trên hai ghềnh đá chênh vênh là chính sách kiểm soát khắc nghiệt của chính quyền mới về tôn giáo và sự giới hạn của hoàn cảnh.
Nếu tuyệt đại đa số những đấng bản quyền, những huynh đệ đồng liêu và đồng viện của họ không nhìn đuợc tận mắt hoàn cảnh này thì sẽ không nếm trải đuợc hết nỗi gian nan để chia sẻ với họ những điều khốn khó ngoài chính họ là những kẻ qua cầu và những nơi đã mở rộng vòng tay thân ái để cưu mang họ trong cảnh ngặt nghèo.
Xét về tài, tuyệt đại đa số các thành viên trong Nhóm đều là những người có trình độ học vấn cao và kiến thức rộng về chuyên môn cũng như về nhiều ngôn ngữ; nhất là chiều dầy suốt 40 năm kinh nghiệm phiên dịch các bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ. Xét về đức độ, đa số các vị đã từng là cha giáo, là Bề Trên, chỉ vang danh là những nhà tu hành có tài, có đức luôn tận tuỵ với ơn gọi của mình trong các nhiệm vụ đuợc giao phó và giờ đây còn tự nhận nhiệm vụ cùng nhau phiên dịch các sách Phụng vụ, các tài liệu của Giáo Hội, ngoài ra không vương mang chút tai tiếng gì về những lỗi phạm đến nhân đức và tu đức.
Thế nhưng, một điều cần nhấn mạnh ở đây là cho đến nay, trong nội tình Giáo hội Việt Nam, Nhóm này vẫn còn là câu chuyện dài chưa dứt. Đây đúng là “câu chuyện dài” mà thiết tưởng mỗi tín hữu cần tìm hiểu và đọc nó bằng sự xác tín rằng đức tin là một ân huệ Chúa ban cùng với từng hành vi cá nhân độc lập phải được xây dựng trên ý thức và nhận định rõ ràng về Đấng mình tin vả theo rồi giữ vững niềm tin đó theo những gì Hội thánh dạy mà không bị bất cứ bóng đen vị kỷ nào che khuất .
Sau khi Nhóm nhận lời mời của Đức cha Nguyễn Sơn Lâm, Chủ tịch Ủy Ban Phụng Tự và đề cử một số thành viên tham gia sinh hoạt của Ủy Ban này thì hai linh mục Thiện Cẩm và Nguyễn Văn Hoà không còn trong Nhóm nữa.
Vào năm 2005 xảy ra việc Ủy Ban Phụng Tự do giám mục Trần Đình Tứ làm Chủ Tịch đã đem bản dịch tiếng Việt của Sách Lễ Rô ma in năm 1992 mà đây chính là công trình đầu tiên của Ủy Ban Phụng Tự dưới triều Đức cha Nguyễn Sơn Lâm làm Chủ Tịch ra duyệt lại và sửa đổi cho thành một bản mới rồi ấn hành cùng năm và buộc phải đuợc sử dụng ngay để thay thế bản dịch cũ. Sự kiện này đã gây ra nhiều luồng dư luận không tốt cho Hội Đồng Giám mục Việt Nam nói chung và cách riêng cho những tác nhân liên hệ. Có những người muốn tỏ ra hiểu chuyện đã cho đây là việc làm có chủ ý muốn xoá tên Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ trong đó. Chẳng là khi Sách Lễ Rô ma 1992 ra đời thì Uỷ Ban Phụng Tự có 16 thành viên mà nửa số nhân sự là của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ, gồm các linh mục Trần Phúc Nhân, Đỗ Xuân Quế, Nguyễn Ngọc Rao, Trần Ngọc Thao, Nguyễn Hữu Phú, Nguyễn Công Đoan, Nguyễn Ngọc Tỉnh và Trịnh Văn Thậm. Lại có những người khác làm như suy nghĩ chín chắn hơn đã luận thêm rằng trong cái nửa còn lại kia cũng toàn các bậc vị vọng trong Giáo Hội như các linh mục Trần Văn Hiến Minh, Hồ Văn Xuân, Phạm Quốc Tuý, Kim Long, Hoàng Đắc Ánh, Nguyễn Ngọc Sơn và luôn cả Tổng thư ký Trần Đình Tứ nữa mà, chẳng lẽ đây lại là trò bôi mặt đá nhau để nhắm thêm lập thành tích cho “triều ta”. Cũng chính vì những cái suy ngộ nghĩnh này mà sự việc lại tạo thêm uy tín cho Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ vì đã vô hình trung bắt dư luận phải bỏ thái độ lơ là trước đây để tìm hiểu về Nhóm nhiều hơn. Đồng thời, khối tín hữu bắt đầu sửng sốt với cách hành xử và đôi ba lời nói đáng để đời từ miệng các đấng bậc mà xưa nay họ vẫn nghĩ chỉ rao giảng lời ngay lành và hành xử điều thánh thiện.
Tại sao người ta lại có thể mở miệng nói với nhau những câu đầy tính thế gian và tính xác thịt kiểu cạnh tranh ở chốn chính trường hay thương trường rằng “đừng để Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ khống chế Uỷ Ban Phụng Tự”. Khống chế ai và khống chế để đuợc gì với những trang Kinh Thánh? Nếu chỉ nghe câu này như nghe chuyện trong nhà ngoài phố thì cũng còn có thể, nhưng nếu lấy con mắt nội tâm mà nhìn từ quá khứ sang hiện tại với những thành viên như Nguyễn Hữu Phú, Nguyễn Ngọc Rao, Đỗ Xuân Quế ; như Trần Ngọc Thao, Trần Phúc Nhân, Nguyễn Công Đoan, Nguyễn Ngọc Tỉnh… xưa nay từng là những khuôn mặt như thế nào trước tha nhân, trước anh em và ở giữa cộng đồng Dân Chúa Việt Nam ra sao rồi nghe câu nói trên đuợc thốt ra từ miệng một giám mục thì mới thấy phải chăng Thiên Chúa đã dùng chính anh em trong nhà để thử sức xem họ có bền đỗ trên lộ trình đã cùng nhau dấn buớc hay không mà cũng có thể chỉ vì họ đã làm lời rất nhiều những nén bạc được giao.
Có điều không phải cát bụi nào đuợc hà hơi cũng là cát bụi tuyệt vời nếu chung cuộc chỉ thấy ngao ngán trong cái vòng luẩn quẩn “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi. Ôi cát bụi mệt nhoài”… Mệt như một tiếng nói nào đó của một chức sắc trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã buông ra một cách vừa vô tri, vừa thô bạo lại vừa vô trách nhiệm là “Ai khiến chúng nó dịch” thay vì lẽ ra vị ấy phải hiểu “Chúng Nó” dịch không phải vì ai khiến mà vì tấm lòng đối với Giáo Hội và Quê Hương. Chính nhờ ở những tấm lòng này mà chỉ mới vừa qua buổi ban đầu sơ khai từ con số không mà mấy năm sau lại đủ sức chồi lên khi cơn nghịch lũ 1975 chụp tới, khi tất cả bỗng dưng thay đổi hết. Mọi anh em đều bị thất nghiệp, không được dạy học, không được làm bất cứ việc gì đang làm trước đó. Thế nhưng, họ có thể bị thế gian làm khó về những sự thế gian nhưng tấm lòng của cả Nhóm thì không ai cấm được, nên họ đã từ hoàn cảnh hụt hẫng này mà tận dụng hết thời gian để phiên dịch các bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ mau hơn. Phần vì khi đó độ tuổi các thành viên đều cùng xấp xỉ trẻ như nhau, người trẻ nhất là cha Nguyễn Công Đoan, 36 tuổi và người già nhất là cha Nguyễn Hữu Phú cũng mới 46 tuổi ; song điều chắc chắn nhất là giữa cái hoang vu của đời người lúc đó, họ dễ nghe đuợc tiếng Chúa đáp trả hơn khi đồng thuận cùng nhau góp hết sức tâm linh mà gọi Người. Chính sự đồng thuận cùng nhau góp hết sức tâm linh mà gọi Người này đã giúp họ có được 40 năm bên nhau để làm công việc lại hệ vào tài sức của từng cá nhân. Nếu nói đây chính là một Phép Lạ cũng không ngoa hay lộng ngôn vì cứ nhìn vào Hội Đồng Giám mục Việt Nam thì rõ.
Lại cũng cần nói đến một sai lầm cố hữu xưa nay nơi não trạng chung trong đạo là cứ lý luận xuôi chiều rằng “Đức cha” thì hơn “cha” và “cha” thì hơn “thầy” trong khi giám mục chắc gì đã giỏi hơn linh mục nếu giám mục đó không đuợc đào tạo cách riêng về chuyên môn, về kỹ thuật của một lãnh vực nào đó; đồng thời không loại trừ cả phần nội tâm có hướng thiện theo cảm quan Ki tô giáo hay lại vì dọn đường tiến thủ mà không chừa bất cứ một dạng “isme” nào mà không uốn lưỡi và bẻ cong ngọn bút như chuyện “cánh chung luận” vừa xẩy ra chẳng hạn.
Lại cũng không phải chỉ vì đã có đi du học ở Pháp, ở Đức, ở Mỹ mấy năm thì khi về là có thể thông thạo các thứ tiếng nước đó mà cho dù có đủ thông thạo đi chăng nữa thì cũng chưa chắc đủ để làm công việc phiên dịch… cho dù là chỉ dịch sách báo chứ đừng nói đến dịch Kinh Thánh hay các sách về thần học và tín lý là lãnh vực cần có chuyên môn vững vàng để bảo đảm sự trung thực của nội dung bản gốc đuợc chuyển qua đúng với các nguyên tắc về phiên dịch. Một ví dụ cụ thể chẳng hạn như trước đây Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn cũng đã từng dịch Kinh Thánh và nghe đâu cho in mãi bên Tây Ban Nha đem về, nhưng rồi sau đó bản dịch này đã từ từ âm thầm thất truyền. Trong một dịp đề cập đến bản dịch Kinh Thánh này với Đức cha Nguyễn Huy Mai là người nổi tiếng bảo thủ mà ngài cũng kết luận là “những lãnh vực chuyên biệt như thế đâu phải cứ là giám mục thì không cần có chuyên môn cũng chen vào đuợc đâu”…
Trong thuật lãnh đạo của những bậc minh quân tận hiếu tận trung với dân với nước thì việc biết hiền và dùng hiền đuợc đặt lên hàng đầu, bằng không sẽ là những điều không may vô cùng cho đất nước nếu như có hiền tài mà không biết, biết mà không dùng và dùng mà không tín nhiệm. Đó mới là thuật trị nước của thế gian với những khuynh hướng chính trị phức tạp mà còn phải hiểu biết về hiền tài như vậy, huống gì ở đây lại là sứ vụ rao giảng mà mọi công dân Nước Trời đều có chung nguyên lý là anh em Một Cha, cần phải khiêm tốn học hỏi, phải túc cho nhau để danh Cha cả sáng, ý Cha thề hiện dưới đất cũng như trên trời.
Giáo Hội Việt Nam hiện nay cũng đang có những điều không may này bên cạnh nhiều điều không may khác ra sao, chỉ cần ai có chút lòng cũng đủ để thấy xót xa rồi tự hỏi tiền đồ Giáo Hội Việt Nam sẽ ra sao khi càng ngày càng vắng bớt những chuyên viên, chuyên gia thật sự nặng lòng với Giáo hội Quê hương, mà những người có trách nhiệm lãnh đạo dân Chúa vẫn không nghĩ đến phải trân trọng hợp sức với Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ để cùng tiếp tay đào tạo lớp kế thừa.
Các vị thành viên trong Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ giờ này tuy tuổi đã cao nhưng họ vẫn nhiệt tâm âm thầm làm công việc dịch thuật cho Giáo Hội, thì đủ chứng tỏ những vị ấy không làm với mục đích để khống chế ai, mà chính vì không muốn làm những người vô trách nhiệm với nhu cầu tâm linh của Dân Chúa. Còn những người hữu trách trong cơ chế đã vì đầu óc hẹp hòi, đố kỵ hay mặc cảm sao đó mà tạo ra những trở ngại cho sự cộng tác trong tình huynh đệ và trong trách nhiệm chung để cùng xây dựng Giáo Hội Quê Hương hôm nay và ngày mai, thì chẳng phải đó chính là những viên quản lý bất trung đã để lãng phí một phần gia sản thiêng liêng của Người trao ban cho Giáo Hội Việt Nam sao?
Vậy, vì lý do gì mà Hội Đồng Giám mục Việt Nam suốt 41 năm qua nếu chưa làm xong trách nhiệm như Tông Hiến đòi buộc “Các Hội Đồng Giám mục trong mỗi quốc gia…” thì ít ra cũng cần phải có chút thiện chí mà cảm kích tiếp nhận những thành quả này như những hoa trái đuợc mùa của Giáo Hội Quê Hương chứ sao lại nửa như bỏ mặc anh em, nửa như xem thường việc đòi buộc của Hội thánh qua Tông hiến Laudis Canticum không phải là việc cần thiết. Chẳng những thế, lại còn dung túng cho những cá nhân trong cơ chế công khai tỏ thái độ kèn cựa sơ đẳng kiểu hàng thịt nguýt hàng cá như trường hợp một thành viên của Uỷ Ban Phụng Tự của Đức cha Trần Đình Tứ và cũng là giáo sư Phụng vụ của Đại Chủng Viện Thánh Giu se Sài Gòn là linh mục Nguyễn Thế Thủ, đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không gièm pha với các nữ tu theo học các lớp Phụng vụ rằng “đừng mua sách Các Giờ Kinh Phụng vụ của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ nữa, bởi vì nay mai Uỷ Ban Phụng Tự sẽ có bản dịch mới”.
Vào dịp tháng 05/2011 vừa qua, với nhiệm vụ của một người làm truyền thông Công Giáo, người viết đã tìm đến Trụ Sở sinh hoạt của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ để tìm câu giải đáp cho nhiều ngưồn dư luận, rùm beng cũng có mà xầm xì cũng có, từ mọi nẻo đó đây trong và ngoài nước. Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh với tư cách Thường trực Ban Điều Hành Nhóm, đứng ra giải đáp mọi khúc mắc, hướng dẫn cho hiểu qua mọi sinh hoạt của Nhóm đã gần 13 năm nay gói ghém trong căn nhà 8m x 16m gồm tầng trệt và sáu tầng lầu, toạ lạc tại số 1, hẻm 58, đường Phạm Ngọc Thạch. Từ nhà nguyện, phòng sinh hoạt chung, các phòng làm việc với những tủ đầy ắp các nguyên bản sách Phụng vụ, Kinh Thánh cùng những tài liệu cần thiết cho việc phiên dịch đến phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, kho chứa sách và nơi để xe… nhất nhất đều vừa việc cho mọi anh em. Người viết cũng được cả Nhóm cho phép tham dự trực tiếp vài ba sinh hoạt… để đủ dữ kiện mà nhận ra rằng nơi đây mới đúng là một mái nhà chung, một tập hợp những người cùng chung tâm ý nên càng làm việc lâu ngày càng biết rõ nhau thì càng thân nhau, quý mến nhau, tạo nên một bầu khí không thể tìm ra ở nơi khác. Đó chính là ân huệ Chúa ban cho anh chị em họ và qua họ cho Giáo Hội Việt Nam có đuợc một số kết quả như hôm nay :
1. Dưới dạng sách in
1972. Các Giờ Kinh : Phần Thường Niên Tuần I
1973. Tuần II
1975. Tuần I, II, III và IV
2. Dưới dạng sách quay rô nê ô
1975. Mùa Vọng & Mùa Giáng Sinh
1976. Nghi Thức Thánh Lễ
Mùa Chay & Mùa Phục Sinh
1977. Phần Chung và Lễ Riêng
Nghi Thức Tuần Thánh
1979. Các Bài Đọc trong Thánh Lễ : Chúa nhật và Đại Lễ
1980. Nghi Thức Hôn Phối
1982. Các lời nguyện sau các Thánh vịnh
1983. Nghi Thức An Táng
1985. Tân Ước
1986. Ngũ Thư
1987. Lịch Sử I
3. Dưới dạng sách in trở lại
1990. Các Giờ Kinh Phụng vụ
1993 1995. Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách
1996. Các sách Ngôn Sứ
15/01/1998. Các sách Giáo Huấn
01/05/1998. Ngũ Thư
05/05/1998.Kinh Thánh trọn bộ với dẫn nhập và chú thích đơn giản
1999 – 2000. Các Bài Đọc trong Thánh Lễ dưới dạng photo
Mãi đến năm 2009 mới in 2 màu
12/12/2002. Lời Chúa trong Thánh Lễ
06/01/2003. Lời Chúa cho người khiếm thị :
Bốn sách Tin Mừng
Sách Công vụ Tông Đồ
Các Thánh vịnh
Lời Chúa trong Thánh Lễ
01/12/2004. Đối chiếu Bốn Sách Tin Mừng
23/12/2005. Lời Chúa cho mọi người : Tân Ước
15/09/2006. Lời Chúa cho mọi người : Kinh Thánh trọn bộ
23/04/2007. Kể chuyện Kinh Thánh cho Trẻ Em (từ 6 9 tuổi)
Kể chuyện Kinh Thánh cho Thiếu Niên (từ 10 15 tuổi)
11/09/2008. Đọc Tin Mừng Chúa nhật theo Lectio Divina năm B
15/10/2009. Tân Ước hiệu đính (bản dịch để học hỏi)
13/11/2009. Đọc Tin Mừng Chúa nhật theo Lectio Divina năm C
03/11/2010. Đọc Tin Mừng Chúa nhật theo Lectio Divina năm A
2010. Ngũ Thư (bản dịch để học hỏi)
01/11/2011. Kinh Thánh ấn bản 2011
Chính vì thế, niềm hân hoan của Nhóm gặt hái được vẫn không phải chỉ là thành quả tính bằng một danh sách dài lê thê về các ấn bản dịch thuật mà Nhóm đã thực hiện như trên, song còn là nhiều ý nghĩa của ân tình và tín nghĩa đã như chất keo gắn liền những phần đời của họ lại suốt 40 năm đã qua cũng như còn tiếp nối theo những năm sẽ tới như một duyên nợ tâm linh trong thân phận chung thành một cái tên để đời là Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ.
Điều cuối cùng để kết lại những suy nghĩ về người và việc này là ngay cả những ai nhận hay không muốn nhận, đồng ý hay không muốn đồng ý thì sự thật vẫn là Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ đã dâng hiến cho Giáo Hội Việt Nam 40 năm tài sức của họ để cung ứng kịp thời cho cộng đồng Dân Chúa Việt Nam đuợc hoà chung dòng tâm linh với Hội Thánh như Đức Thánh Cha Phao lô VI mong đợi “…Ước chi sách Các Giờ Kinh Phụng vụ này mà giờ đây chúng tôi lấy Tông quyền chấp thuận, phê chuẩn và ban hành giúp cho Hội Thánh thời nay trổi vang lời ca tụng Thiên Chúa một cách tuyệt vời hơn nữa…”(Tông Hiến Laudis Canticum).
Tạ ơn Chúa… vì qua những tìm hiểu để suy nghĩ về người và việc trên đây mà Dân Chúa có thêm được một biểu chứng rằng thật sự Người vẫn đang ở cùng chúng ta.
Phạm Minh Tâm
http://www.nuvuongcongly.net
22.12.11
Nghĩ về người và việc
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 komentarze:
Đăng nhận xét